Habubank - Đảo nợ là gì ? Những khái niệm dưới đây phần nào giúp những ai chưa hiểu được thế nào là ''
đảo nợ ngân hàng '' , thì chí ít cũng hình dung ra được '' đảo nợ '' là tốt hay xấu .
Khái niệm 01Có rất nhiều khái niệm, định nghĩa, cách hiểu về cụm từ "
đảo nợ ngân hàng" nhưng hiểu một cách đơn giản, đảo nợ là thay món nợ cũ bằng một món nợ mới. Bản thân cụm từ này không có lỗi, nhưng nhiều người biến tấu vận dụng nó theo nghĩa tiêu cực nên
Ngân Hàng Nhà Nước liệt vào dạng vi phạm và bị phạt hành chính được nêu trong nghị định 202 .
Xuất phát từ quan điểm trên, chúng ta đi vào phân tích ắt sẽ có cái nhìn thấu đáo hơn:
01. Một người vay nợ do làm ăn không hiệu quả dẫn đến mất khả năng trả nợ khi đáo hạn. Họ sẽ làm gì để trả có thể trả nợ? Ngân hàng bị ảnh hưởng gì? Trước tiên, ngân hàng sẽ bị thiệt do không thu hồi nợ đúng thời hạn,
nợ xấu tiềm năng gia tăng dẫn đến trích dự phòng tăng kéo theo chất lượng tín dụng không tốt tiếp theo vốn khả dụng giảm tiếp theo nữa cho vay giảm và cuối cùng lợi nhuận bị ảnh hưởng.
Do đó để tránh tình trạng này,
Ngân Hàng (chủ yếu là cán bộ tín dụng) kết hợp với khách hàng "hô biến" món nợ xấu (cũ) thành món nợ mới (tốt như bình thường) bằng cách làm lại hợp đồng mới tái vay cho khách hàng (không cần phải trả nợ - cách này bị ngân hàng cấm) hoặc cách khác khách hàng có thể vay ở ngoài để trả nợ trước sau đó Ngân hàng cho khách hàng vay lại, tức là " vay cũ " thành " vay mới ". Nói chung, về nguyên tắc cách này không tốt và cực kỳ nguy hiểm, bởi khách hàng làm ăn không hiệu quả mà "tái vay" thì lại càng nguy hiểm.
02. Khách hàng đang làm ăn tốt, khi món nợ đến kỳ đáo hạn ngân hàng nhưng khách hàng chưa thu tiền về kịp, khi đó họ sẽ làm gì để trả nợ cho Ngân Hàng? Khách hàng sẽ vay món tiền trước, sau đó trả nợ ngân hàng và xin vay lại vì đang làm ăn tốt. Sau đó tiền về họ trả lại ngân hàng (
bank) và tái kinh doanh. điều này ko xấu nhưng rất hiếm khi xảy ra.
Khái niệm 02
Có thể nói
đảo nợ được định nghĩa một cách đơn giản, đó là cho giải ngân một hợp đồng mới để trả nợ cho hợp đồng cũ (cụm từ đảo nợ ở đây được hiểu theo đúng nghĩa đen). Hiện tượng đảo nợ hoàn toàn bị nghiêm cấm tại các tổ chức tín dụng theo quy chế cho vay vốn của ngân hàng nhà nước, và chỉ Chính Phủ mới được phép thực hiện nghiệp vụ này.
Có thể lấy một ví dụ đơn giản về đảo nợ như sau: Một khách hàng cá nhân vay một khoản vốn ngắn hạn 01 năm với mục đích kinh doanh. Tuy nhiên, đến thời hạn trả nợ, nguồn vốn vay ngân hàng chưa được thu hồi. Khoản vay có nguy cơ bị chuyển quá hạn. Ngân hàng nhận thấy đây là khách hàng tốt, rủi ro xảy ra là bất khả kháng chứ ko có dấu hiệu cố tình không trả nợ. Ngân hàng dùng nghiệp vụ đảo nợ:
Một hợp đồng tín dụng mới được thiết lập với phương án vay hoàn toàn mới, số tiền vay mới bằng số tiền vay cũ. Thực chất tiền không ra khỏi kho của Ngân hàng, chỉ là sử dụng tiền của món vay mới để trả nợ cho món vay cũ. Chứng từ kế toán phải được sửa lại sao cho tiền phải vào để tất toán món vay cũ trước rồi mới giải ngân cho món mới (nếu ko thanh tra sẽ phát hiện ra đây là đảo nợ, các trường hợp bị phát hiện sẽ bị xử lý rất nghiêm).
Khái niệm 03
Thứ nhất. Hiện chưa có bất cứ định nghĩa, quy định cụ thể nào về vấn đề "đảo nợ" ngoại trừ một số văn bản có đề cập đến đảo nợ tuy nhiên cũng không nói rõ đảo nợ là gì, có nghiêm cấm hay không.
Thứ 2. Theo cách hiểu thông thường, đảo nợ là cho vay 1 khoản vay mới để trả nợ khoản vay cũ đến hạn, tức là "hô biến" 1 khoản vay tới hạn, có khả năng quá hạn thành một khoảng vay mới hoàn toàn sạch sẽ. Tuy nhiên cần biết việc trả dứt một khoản nợ và tiếp tục vay một khoản khác được xem như bình thường và không phải là đảo nợ.
Thông thường, khi đến hạn mà khách hàng không trả được nợ thì ngân hàng có các cách xử lý: (1) chuyển nợ qua hạn (2) Gian hạn nợ - cách này thường dùng; xử lý như trên tuy phản ánh trung thực chất lượng của khoản vay nhưng ảnh hưởng đến phân nhóm nợ của ngân hàng và làm tăng chi phí dự phòng. (3) Dùng kỹ thuật: mặc dù không có quy định cụ thể nhưng các ngân hàng không bao giờ dám "đảo nợ" theo cách mô tả ở trên (ngoại trừ trường hợp
mua bán nợ, tái cấu trúc món nợ có quy định riêng), do đó một số chi nhánh của các ngân hàng chọn cách thức sau để đảm bảo "hình ảnh đẹp" của dư nợ vay, đó là họ yêu cầu khách hàng "tìm cách" trả dứt món nợ tới hạn, sau đó lại cho vay món mới theo kế hoach kinh doanh mới mà thực chất là tiếp tục món nợ cũ.
"Tìm cách" đảo nợ như thế nào? câu hỏi được trả lời trên mục rao vặt của rất nhiều tờ báo: "nhận đáo hạn, giải chấp ngân hàng, thủ tục nhanh, uy tín, phí thấp. Các dịch vụ loại này hiện khá phát đạt, tuy nhiên kinh nghiệm ở một số bang của Mỹ cho thấy các dịch vụ loại này góp phần tạo nên sự sụp đổ của hệ thống tín dụng nên đã bị cấm, dù vậy một số bang khác vấn cho phép hoạt động.
Thứ 3. Câu hỏi đặt ra vậy ở nước ta có "đảo nợ" không? Xin thưa theo cách hiểu đề cập ở mục thứ 2 thì không. Nhưng hoạt động tương tự (như đề cập ở phần cuối mục thứ 2) thì cũng không....biết có bao nhiêu mà nói...
Và đánh giá của người trong cuộc...
Đối với
ngân hàng Nhà Nước, việc đảo nợ là nghiêm cấm, tuy nhiên đối với các Ngân hàng thương mại thì việc đảo nợ là đương nhiên vừa đảm bảo tránh trích lập dự phòng vừa hỗ trợ được đối với những khách hàng tốt. Tuy nhiên việc đảo nợ thế nào cho hợp lý thì lại là một vấn đề đối với từng cán bộ tín dụng, vì không ở đâu dám công khai dạy việc này, và để khi thanh tra nhà nước có sờ vào biết và cũng cho qua, việc đảo nợ phải đảm bảo:
- Thời gian trả tiền vào và thời gian giải ngân là khác nhau: Cụ thể là phải khác ngày vì cuối ngày in sao kê 2 món có cùng số tiền, cùng KH và có cả 2 nghiệp vụ phát sinh có nghĩa là đảo nợ khống.
- Với khái niệm 02 hoàn toàn không ổn: Trường hợp 1 đã nêu ở trên, trường hợp sau nếu xảy ra cùng với việc tiền không ra khỏi ngân hàng đồng nghĩa với việc chênh lệch giữa báo cáo quỹ và quỹ thực tế - việc này đồng chí trưởng phòng dịch vụ khách hàng không bao giờ chấp nhận, và việc sửa chứng từ điện tử là điều không tưởng.
- Trường hợp dùng tên người khác làm món vay mới là chấp nhận được, tuy nhiện để hoàn thiện được một bộ hồ sơ là tương đối mất thời gian.
- Ta có thể dùng nguồn tiền khác ngoài kinh doanh của khách hàng để đảo nợ, việc này cán bộ tín dụng tinh ý sẽ biết là gì và nguồn rất nhiều. Tuy nhiên để làm được, cán bộ tín dụng và khách hàng phải chủ động tránh để nước đến chân mới nhảy.
Tóm lại: Để
đảo nợ ngân hàng thành công phải hội tụ đủ yếu tố: Khác thời gian và thực sự phải có nguồn tiền nộp vào đúng hạn, đảo nợ ngân hàng khống trách nhiệm đầu tiên sẽ thuộc về lãnh đạo và khi đó ngân hàng nhà nước vừa phạt nặng vừa cười cho vì trình độ yếu kém.